Hôm đó, mọi người đang công nào việc ấy. Thầy Rồng cùng bọn học trò chúng tôi mải mê trong giờ học. Bỗng có tiếng chửi bâng quơ léo xéo của mấy bà già ngoài đầu cống làng. Rồi tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng giày đinh lộp cộp nện mạng xuống đường, tiếng xì xồ của bọn mũi lõ mỗi lúc một gần… Tiếp đỏ, có tiếng nói to bên ngoài. - Tây về! Tây về!
Cả lớp nhốn nháo nhưng lập tức trở lại im lặng, hồi hộp.
Trời cuối xuân mà trông trán thầy Rồng lấm tấm mồ hôi. Giấu bên trong đầu óc thầy là bao sự suy nghĩ, mà đầu mối là sự việc đang biến diễn và sẽ tiếp diễn. Chắc không phải thầy chỉ lo riêng cho tính mạng của mình. Thầy tin chắc là bọn tây, lính rồi sẽ đến lớp…
Từ khi chúng lập bốt tề đến nay, dân làng sống trong cảnh lo âu, sợ sệt. Do yêu cầu của dân và nhất là của bọn học trò ham học, bất đắc dĩ lắm thầy mới ra nhận việc dạy học, làm thấy giáo làng.
Thầy Rồng và cả lớp học trò của thầy, trong điều kiện kháng chiến thiếu thốn nhiều thứ, đều đồng loạt quần nâu, áo vải. Thầy chỉ hơn trò chiếc áo lương thâm đã bạc vai khoác ngoài.
Roạt! Cách cổng trường bỗng bị đạp tung, một thằng tây trắng mặt đỏ gay, miệng sặc mùi rượu, quần áo soóc cụt ngủn, tay chân long lá xồm xoàm, đầu tóc vàng hoe xoắn tít, đôi mắt xanh lè nhìn chếch qua sống mũi khoằm nhô cao. Tất cả toát lên một sự ghê tởm nồng nặc. Dáng bộ xấc xược của nó làm cả lớp ngó nghé. Nó tiến vào lớp cùng với con chó béc giê và mấy thằng lính nguỵ. Con chó đáng chết, hết vẫy đuôi lại hếch mõm sủa, chân vạch vạch bới đất như ra hiệu. Thầy Rồng chưa kịp gõ thước cho học sinh đứng dậy chào mỗi khi có khách lạ, thì mấy thằng nguỵ khác đã lạch bạch khuân vào lớp một cái hòm gỗ đã mục, để lộ mấy viên đạn đồng hoen gỉ. Quay ra ngoài, chúng càu nhàu, giọng nặng chịch, mệt mỏi: “Bắt bớ gì chỉ làm khổ người ta! Lại còn bày trò để khiêng với vác! Mẹ kiếp”.
Trong lớp, bọn tây lính hết chăm chăm nhìn thầy Rồng, lại nhìn chiếc hòm gỗ. Một thằng cất tiếng hỏi:
- Cài này là của ai? Thầy Rồng.
Thầy chưa trả lời, thì một thằng khác nói xen vào:
- Cái vạ của nhà thầy đó! Của quí lắm đó!
Lặng nhìn cái hòm, thầy biết sự không may đang đến với thầy. Song rất bình tĩnh, thầy lắc đầu trả lời:
- Tôi không được biết.
Thằng tây trợn tròn hai mắt. Nó nói gì liến thoắng không ai rõ. Mãi sau, nó dằn từng tiếng lơ lớ:
- Thầy Rồng, thầy làm Việt Minh! Với những ai? Khai mau.
- Tôi có biết gì đâu mà ông bảo khai!
Thằng Tây đảo đôi mắt xanh lè, mặt đỏ gay. Nó đập tay xuống bàn bực tức. Lọ mực nảy lên quay long lóc, làm dây bẩn khắp mặt bàn. Cây bút chì cũng văng ra, rơi xuống đất.
Không chịu nổi thái độ hung hăng, nạt nộ một cách vô lễ thầy nói:
“Xin lỗi! Ông hãy bình tĩnh, suy xét cho kỹ rồi hãy nói. Tôi không biết việc các ông làm. Tôi chỉ biết dạy học trò. Mong các ông để yên, cho tôi được dạy học…”
Thầy quay xuống nhìn lớp, giọng nói quen thuộc, trìu mến:
“Các em hãy bình tĩnh, đợi các ông xong việc, lại học bình thường, đừng có sợ hãi gì cả:.
Thằng tây chống tay nẹ sườn, phanh cái ngực rộng như canh phảm đầy long lá. Nó khoa tay trước lớp học:
“Ê, bé con có biết cái hòm này của ai không? Đứa nào biết, tao thưởng tiền”. Nó rút trong túi ra một nắm bạc giấy, xoè xoè trước mặt. Chẳng có tiếng trả lời. Qua mấy câu hỏi gặng, cả lớp vẫn lặng im. Nó hung hăng suýt chó và kéo mấy thằng lính nguỵ áp sát thầy Rồng rồi quay mặt nhìn thẳng xuống lớp, thái độ hống hách, đe doạ:
- Có thực không đứa nào biết không?
Tức thì, một học trò dáng người dong dỏng, nước da ngăm ngăm rụt rè đứng dậy, ngập ngừng nói:
- Thưa các ông! Lúc nãy các ông khiêng nó từ trên bốt về đấy ạ!
Thằng lính nguỵ tái mặt nạ nộ:
- Nhãi con! Ai bảo mày nói bậy?
- Chả là các ông chẳng chửi rủa nó lúc khiêng vác vào đây đó sao?
Bị lộ tẩy, thằng nguỵ sị mặt, lạnh lùng lảng tránh:
- Liệu hồn! Đừng có nói bật!
Đến lượt thằng tây vứt cái cặp da xuống bàn, lục đảo lấy ra một tập giấy, mà bọn phòng nhì trao cho nó từ trước. Đó là bản danh sách du kích Việt Minh hoạt động ở xã, trong đó có tên thầy Rồng. Nó kéo thầy đến cạnh bàn, rút thêm 1 tờ giấy gọi là biên bản, bắt thầy kỳ vào, nhận có hòm đạn và có tham gia Việt Minh. Lắc đầu, thầy nói to:
- Các ông đánh nhau với Việt Minh thì tìm Việt Minh mà đánh nhau chớ đến đây làm gì! Còn như cậy sức mạnh, thì các ông làm sao nên vậy, tôi biết đâu mà ký. Các ông gán cho tôi làm Việt Minh, thì các ông xem đã là người Việt Nam yêu nước, ai chả là Việt Minh.
Thằng Tây đuối lý, càng điên cuồng hò hét. Nó bắt giải tán lớp và cho lính nguỵ trói thầy Rồng áp giải về nhà để khám xét lấy thêm tang chứng.
Tuy không thêm được gì, thầy Rồng vẫn bị chúng đưa về bốt Phùng giam giữ, tra tấn rất dã man. Hết hành hạ lại dụ dỗ, song nửa lời thầy vẫn không khai.
Tên Trinh, khét tiếng gian ác xảo quyệt ở phòng nhì cũng phải bó tay. Có lần nó đã nói với thầy:
- Thầy giáo cứ khai đi, tây nó không làm tội thầy đâu. Rồi thầy muốn ở lại làm việc cho quốc gia, chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận. Thầy lại biết tiếng Pháp, giao thiệp được với tây, thì sẽ sung sướng lắm.
Ròng rã ba tháng trời, không khai thác được gì. Ngay cả hòm đạn, thầy vẫn kiên quyết không nhận. Chúng bèn lập hồ sơ đưa thầy ra Hoả Lò, hàng ngày đi làm cỏ vê, hốt phân ngựa và ăn cá mắm thối. Chúng bắt thầy theo chúng đi càn quét các vùng lân cận, làm phu khuân vác. Cũng nhờ đó, lợi dụng lúc giặc sơ hở thầy đã trốn khỏi xiềng xích quân thù. Ra vùng tự do, thầy liên lạc với huyện uỷ Liên Bắc. Thầy được phân công làm thư ký Mặt trận Liên Việt, rồi tiếp tục về địa phương hoạt động cách mạng trong lòng địch, gây dựng cơ sở, lãnh đạo phong trào, giữ vững tinh thần tin tưởng và ủng hộ kháng chiến của nhân dân.
Mãi cho tới ngày 20 tháng 12 năm 1950, bọn chỉ điểm đánh hơi thầy. Chúng mật báo lên bốt Phùng. 5 giờ chiều, bọn lính nguỵ có tây chỉ huy, kéo về lùng sục khắp vùng và ập tới nhà thầy vây bắt.
Một học trò của thầy được chứng kiến trận giáp chiến không cân sức đó, đã viết lại những dòng thơ xúc động. Nội dung mô tả cuộc đấu tranh quyết liệt của thầy Rồng với lũ giặc và cuối cùng thầy đã hy sinh anh dũng. Đoạn kết có những câu sau:
“… Đất Phan Long. Thầy dù vĩnh biệt,
Lòng nhân dân da diết nhớ thương!
Dẫu rằng nát thịt, tan xương,
Như còn Thầy dưới mái trường hôm nay…
Viên đạn giặc bắn vào Thầy
Làm sao nhức nhối đêm ngày tim ta!
Đời Thầy thơm nức hương hoa
Tấm lòng nhân hậu chói loà vàng son
Sống ơn Đảng, chết còn lý tưởng
Chí kiên cường, dũng cảm, hiên ngang
Góp vào lịch sử một trang
Thầy giáo liệt sỹ xóm làng ghi sâu !”