VỀ MIỀN KÝ ỨC: Bài dự thi đạt giải Nhì Cuộc thi viết kỷ niệm 60 năm thành lập ngành GD&ĐT Thủ đô

Thứ ba, 9/12/2014, 0:0
Lượt đọc: 5995

ôi chỉ là một cô gái người dân tộc thiểu số, lớn lên trong thời bình, cụ thể hơn là những năm của thập niên tám, chín mươi và những năm đầu thế kỉ 21. Nói như thế hệ trẻ ngày nay tôi thuộc thế hệ 8X. Có thể đối với nhiều bạn bè của tôi vào những ngày năm tháng ấy họ đã được sống và thừa hưởng nền giáo dục tiên tiến nhất, tốt nhất nhưng đối với học sinh miền núi như chúng tôi thì ước mơ và hiện thực là một khoảng cách khá xa vời. Tôi có lẽ sẽ chẳng thể như ngày hôm nay là một cô giáo tự tin trên bục giảng với bao học trò mến yêu nếu chẳng có những ngày tháng đã qua ấy.

Ảnh đại diện

Quê tôi ở Ba Vì vùng đất địa linh nhân kiệt nhưng cũng là nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi” và là một trong những huyện nghèo của tỉnh Hà Tây trước đây. Cả huyện có bảy xã miền núi, đồng bào chủ yếu là người dân tộc Mường, Dao sống xung quanh chân núi Tản Viên. Người dân nghèo khó, buôn bán hạn chế, sản xuất nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo nhưng cuộc sống nói chung rất thanh bình. Những đứa trẻ con nơi đây lớn lên khỏe mạnh cùng núi rừng với ba vụ lúa,ngô, sắn và rồi cứ đến tuổi cũng được bố mẹ cho cắp sách đến trường. Xã nào cũng có trường cấp I, II nhưng trường cấp III thì cả bảy xã mới chỉ có duy nhất trường Thanh niên vừa học vừa làm sau này đổi tên là trường THPT Ba Vì. Mãi đến năm 1994 trường Phổ thông Dân tộc nội trú của huyện mới được thành lập và những học sinh dân tộc thiểu số của chúng tôi mới được quan tâm và được cấp học bổng, nuôi ăn học từ lớp 6 đến hết lớp 12. Ban đầu trường chỉ tuyến sinh các khối lớp 7,8,9, mỗi khối một lớp. Tuy tuyển sinh ít nhưng tôi đã may mắn được trở thành học sinh của khóa học đầu tiên năm đó vì có thành tích học tập khá.

Tôi nhập trường với một tâm thế háo hức lạ thường vì được rời chốn quen thuộc của mình để đến một nơi mới mẻ hơn tuy nó chỉ cách nơi ở của tôi 20 km. Ngôi trường bé tí tẹo, đơn sơ với hai dãy nhà cấp bốn, tường được quét vôi màu xanh, phía dưới lát những ô gạch hoa xinh xinh màu nâu . Xung quanh sân trường chỉ là những bãi đất trống cỏ mọc lổn nhổn, có chỗ cỏ dại tốt ngập đầu. Trước đây, khu đất này là bãi tha ma của người dân địa phương, khi trường được thành lập họ mới di chuyển mộ phần đi chỗ khác. Nhìn những huyệt mộ vừa bốc đi, đất lấp vội vàng, dang dở khiến tôi rùng mình. Và thế là những đứa trẻ như chúng tôi lại có dịp phát huy trí tưởng tượng và truyền tai nhau những câu chuyện ma mị. Với học sinh thành phố sẽ chẳng có ấn tượng gì với ngôi trường như thế nhưng với những học sinh dân tộc vùng sâu, xa như chúng tôi thì ngôi trường như thế đã là cả một thiên đường rồi. Con đường đất bụi mù từ quốc lộ 87 dẫn vào trường cứ hun hút như giấc mơ của chúng tôi ngày ấy.

Trường mới thành lập nên cái gì cũng thiếu thốn. Những năm thập niên chín mươi cuộc sống còn khó khăn, Ủy ban nhân dân tỉnh tuy đã rất quan tâm nhưng ngân sách hạn hẹp nên số học bổng mà chúng tôi nhận được chỉ là bảy mươi nghìn đồng một tháng. Đó là toàn bộ số tiền dùng để mua nào thức ăn, gạo, củi, nước mắm, mì chính...và các sinh hoạt phí khác cho mỗi học sinh. Khó khăn là thế nhưng chúng tôi vẫn yên tâm học tập và cùng nhau vui vẻ chung sống. Trường lúc đầu chỉ có bảy thầy cô giáo và hai nhân viên kế toán, thủ quĩ. Mọi người ai cũng phải tất bật lo lắng cho học sinh từ việc học đến việc ăn, ngủ và vì thế tôi thán phục, cũng như kính yêu các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ công nhân viên của nhà trường giống như những người thân yêu của mình vậy nhưng người có tác động đến tôi nhiều nhất và tôi yêu quí nhất lại chính là thầy Hiệu trưởng . Thầy trong tôi là niềm tin, sự ngưỡng mộ, là cả bầu trời loang tím trên đỉnh núi Ba Vì thủa ấy.

Thầy tên là Bạch Công Tiến, lúc làm hiệu trưởng thầy mới chỉ 34 tuổi. Dáng người thấp đậm, nước da trắng nhưng nhìn thầy chững chạc hơn tuổi rất nhiều. Bây giờ tôi cũng bằng tuổi thầy ngày đó nhưng nay tôi thấy mình chỉ là một cô giáo đang từng bước dò dẫm trên đường đời phía trước, đang dần hoàn thiện trang giáo án của cuộc đời mình với nhiều bỡ ngỡ, run sợ còn thầy trước đây đã là một thuyền trưởng vững vàng tay lái, sẵn sàng đương đầu với bão giông. Yêu mến thầy nên chúng tôi vẫn thường hay dõi theo bóng thầy mỗi khi thấy thầy xuất hiện trên sân trường. Dáng hình thầy với bước chân khoan thai, tay chắp sau lưng, ánh mắt đăm chiêu bước trên sân trường mỗi buổi chiều đã khiến tôi chẳng thể nào quên được. Tôi biết thầy lo lắng khi nhận nhiệm vụ làm hiệu trưởng một ngôi trường chuyên biệt vừa mới được thành lập, cơ sở vật chất thiếu thốn đủ đường. Thiếu giáo viên, thiếu phòng học, thầy đã phải gửi những đứa con đầu lòng sang học nhờ trường THPT Ba Vì hai năm. Chúng tôi chỉ học bên đó còn hết giờ lại trở về phòng nội trú ăn, ngủ, sinh hoạt. Thầy rất thương chúng tôi nên đã cố gắng bằng mọi cách có thể để có thêm được nguồn tài trợ từ các tổ chức nước ngoài hay các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để chúng tôi được trang bị nước sạch, có thêm sách tham khảo để đọc, được ăn no hơn, mặc ấm hơn…

Có thể ví kí ức chính là dòng sông năm tháng chảy qua tâm hồn mỗi người, thời gian càng nhiều thì lượng phù sa bồi phủ lên tâm hồn con người càng dày dặn. Thường thì kí ức đầu tiên với mỗi người sẽ sâu đậm, mạnh mẽ và dai dẳng vô cùng, khi người ta càng lớn tuổi thì kỉ niệm quá khứ lại hiện lên càng rõ .Vậy nên dù hai mười năm đã trôi qua thì trong tôi vẫn còn nguyên vẹn về ngày đầu tiên sống ở ngôi trường mới. Đêm đầu tiên, cả khu nội trú chỉ ngủ được khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ kể từ khi tiếng kẻng báo giờ vang lên. Ba giờ sáng nhìn ánh điện ngoài sân trường chiếu xuống lớp sương thu loang loáng khiến chúng tôi cứ tưởng trời đã sáng và thế là tất cả khu nội trú cùng rủ nhau thức dậy đánh răng, rửa mặt. Sau đó chẳng biết làm gì cho trời mau sáng, cả lũ từng đứa một ngồi kể chuyện về gia đình mình để rồi cùng bật khóc nức nở vì nhớ nhà. Nhà thầy Tiến ở ngay cạnh trường, hai vợ chồng thầy cùng một con nhỏ sống trong căn nhà cấp bốn cũng chẳng hơn khu kí túc là mấy. Đêm đó, khi nghe thấy tiếng học trò khóc lại thấy các phòng ở đèn bật sáng chưng đã khiến thầy hoảng sợ, lo lắng và ngay lập tức chạy vội lên trường, đến từng phòng ở của học sinh để hỏi han. Biết chuyện chúng tôi nhớ nhà thầy thở phào nhẹ nhõm, rồi cũng cùng thức để an ủi động viên chúng tôi cho tới sáng.

Đêm mùa đông ở vùng núi thường rất lạnh và có sương giá nên chân taybuốt cóng, tê dại. Chúng tôi cuộn tròn trong những chiếc chăn bông ấm áp do nhà trường cung cấp nhưng vẫn biết có bước chân thầy vẫn lặng lẽ ngoài hành lang chờ cho học trò ngon giấc mới về nghỉ. Sớm hôm sau, thầy vẫn đều đặn dậy từ năm rưỡi sáng để xem chúng tôi đã thức dậy và tập thể dục hay chưa. Quả thật vì đang tuổi ăn, tuổi ngủ nên chúng tôi rất lười vận động. Biết các thầy cô trực đã đánh kẻng báo thức nhưng tất cả vẫn cố tình im lìm ngon giấc.Sau này khi thấy thầy hiệu trưởng đều đặn dậy sớm để lên trường giám sát hay gọi chúng tôi dậy tập thể dục thì tất cả, không ai bảo ai đều dường như có một ý thức rằng cần phải thực hiện nghiêm túc thói quen sớm mai này. Không phải chúng tôi sợ thầy mà vì kính nể và tôn trọng thầy biết bao.

Những ngày được nghỉ, không phải tự học thì chúng tôi lại đề nghị các bạn nhà ở gần đó mang khoai, sắn hay bất cứ thứ gì ăn được để cùng nhau vào khu bếp nhà trường mượn nồi rồi lấy củi đun nấu. Nấu chín cả lũ lại xuýt xoa tranh nhau ăn. Thầy biết chuyện nhưng không phê bình hay nghiêm cấm, chắc thầy tưởng chúng tôi đói nên mới làm vậy nhưng thực chất chỉ là những thói nghịch ngợm của thời “ nhất quỉ, nhì ma” mà thôi. Sau này khi đã học ở Hà Nội, nhìn thấy những thứ quà quê ngon mắt trên gánh hàng rong trên khắp các tuyến phố tôi lại chạnh lòng và mong muốn một lần nữa được sống trong cảm xúc của những ngày đã qua.

Thầy của chúng tôi nhìn bên ngoài là người có vẻ lạnh lùng, khó gần. Các thầy cô giáo hay nhân viên trong trường cũng thường nói vậy và rất e ngại khi tiếp xúc với thầy nhưng với những đứa học trò chúng tôi thời đó thì được nói chuyện với thầy là niềm vui, sự hạnh phúc. Thầy là cả bầu trời tri thức về mọi lĩnh vực. Thời đó chúng tôi ai cũng thích giờ chào cờ, không phải đó là tiết học mà không phải học mà chỉ đơn thuần là được nghe thầy nói. Thầy ít khi trách mắng học trò mà chủ yếu là kể cho học sinh nghe về những tấm gương của những bạn bè cùng trang lứa với chúng tôi trên khắp đó đây, giới thiệu những nền giáo dục tiên tiến của thế giới hay là những kỹ năng sống và óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của người Nhật, Singapo…để khích lệ chúng tôi học tập, noi theo. Giờ chào cờ không hề có tiếng động, những cặp mắt cứ tròn xoe nuốt từng lời. Có lẽ tâm hồn mỗi học sinh thời đó giống như những mảnh đất còn sơ khai và chúng tôi là những mầm cây mới chỉ đang đón nhận những tia nắng ấm áp đầu tiên của cuộc đời đang rất cần tới những bàn tay gieo trồng, chăm sóc .Thời đó chúng tôi chỉ có kênh giải trí là chiếc tivi đen trắng xem nhờ nhà thầy cô hay người dân quanh đó, đâu giống như học sinh của tôi hiện nay đã sớm biết đến công nghệ thông tin, lên mạng, “lướt wep” nên ít khi chịu lắng nghe.

Thầy vốn đa tài khi không chỉ hát hay mà còn chơi được cả hai loại nhạc cụ ghita và organ. Tôi còn nhớ có lần một đoàn khách đến thăm trường và chúng tôi đã chuẩn bị tập luyện một số những tiết mục văn nghệ để chào mừng. Không may cho chúng tôi hôm đó anh nhạc công lại không thể đến đúng giờ .Khi mọi người đang rất bối rối thì thật bất ngờ thấy đã bước lên sân khấu, hài hước nói với khách những câu chữa cháy tình huống rồi thản nhiên đệm đàn cho học sinh múa, hát . Phải nói chúng tôi ngưỡng mộ thầy lắm.

Có lần thầy đã gọi tôi sang phòng và khi đó tôi thấy thầy đang ngồi cạnh cây đàn organ, kế bên là bác nhạc sĩ nghiệp dư của địa phương cũng là một phụ huynh của học sinh trong trường. Thầy tươi cười bảo tôi ngồi xuống và nói thầy đang sáng tác một bài hát về mái trường của mình và yêu cầu tôi cùng tham gia sáng tác. Tôi cảm thấy vinh dự và cũng rất lo lắng nên suốt buổi hôm đó trái tim cứ liên tục đập rộn ràng. Kết quả, tôi cũng chẳng nghĩ được gì nhiều, chủ yếu vẫn là thầy tự mình sáng tác .Cứ nghĩ ra được câu từ, điệu nhạc nào thầy lại yêu cầu tôi cùng bác nhạc sĩ tham gia góp ý, chỉnh sửa. Bài hát đó giờ đã thành bài hát truyền thống của nhà trường với lời mở đầu là những ca từ thật đẹp: “Ai qua đây hãy nhớ ghé dừng chân. Quê hương tôi xanh bát ngát một màu. Soi in nghiêng dưới bóng núi Ba Vì, ngôi trường của em, em quí, em yêu....” nhưng đến nay tôi cũng chẳng thể nhớ nổi đâu là câu ca mình nghĩ ra nữa. Bài hát đã in sâu trong kí ức của tôi cùng hình bóng người thầy năm ấy.

Câu nói của thầy mà tôi nhớ nhất : “ Các em phải dẹp bỏ sự tự ti vốn có của người dân tộc, đừng để người khác coi thường mình.Dù là trình độ học vấn hay trong giao tiếp, ứng xử cũng phải chứng tỏ cho họ thấy mình không thua kém gì họ”. Nhờ thầy mà chúng tôi được giao lưu với một số đoàn khách quốc tế trong đó có đoàn học sinh trường trung học Meisay Nhật Bản. Nhờ thầy mà chúng tôi có đủ sự tự tin vào bản thân mình và đã luôn cố gắng tận dụng hết vốn tiếng Anh có thể để hòa đồng và vui chơi cùng các bạn. Đã có những bạn lớp tôi kết thân với các bạn học sinh Nhật Bản và điều đó đã giúp ích các bạn rất nhiều khi học văn bằng hai tiếng Nhật ở trường đại học. Nhờ duy trì mối quan hệ tốt đẹp nên thời gian sau trường tôi còn có một đoàn học sinh được cùng thầy Hiệu trưởng bay sang Nhật thăm trường bạn theo lời mời và sự tài trợ của họ. Thầy đã cho chúng tôi đến gần hơn với thế giới, đã cho chúng tôi sự tự tin cần thiết trong cuộc sống sau này mà thói quen này phải nhờ rèn luyện mới có. Điều đó đã khiến khoảng cách của học sinh dân tộc thiểu số với học sinh vùng xuôi được rút ngắn lại và ước mơ chinh phục những ngôi trường đại học mơ ước đến gần hơn với học sinh miền núi như tôi. Khóa học sinh đầu tiên của trường đỗ đại học chưa đến chục người nhưng thầy đã rất vui và ngày chúng tôi nhận giấy báo điểm mỗi đứa cũng đồng thời nhận được món quà từ thầy là số tiền một trăm nghìn đồng . Chúng tôi vui sướng và cũng rất xúc động. Số tiền ấy là cả một tháng học bổng có dư giúp chúng tôi phần nào trang trải khi nhập học ở Thủ đô.

Năm học lớp 12, mặc dù biết trường Đại học sư phạm Hà Nội lấy điểm khá cao nhưng tôi đã quyết tâm phải thi vào ngành sư phạm vì kính yêu những người thầy, người cô của mình. Ngày tôi tốt nghiệp về trường giảng dạy cũng là ngày thầy chuyển công tác khác do hết nhiệm kì. Thỉnh thoảng do yêu cầu của công việc thầy cũng vẫn về thăm trường. Tôi thấy thầy ít khi ở lâu lại trường có lẽ vì sợ tim mình lại thổn thức, quyến luyến với những gì đã qua. Tôi biết thầy buồn lắm. Thầy nói với tôi: “Buồn chứ ,trường là thành quả lao động đầu tiên của mình mà. Tuy nhiên, thầy vẫn rất vui vì bây giờ tuy không còn là nhà giáo nữa nhưng vẫn được xã hội tôn trọng gọi là thầy, cả cơ quan của thầy không ai được thế đâu đấy.” Thầy cười như để che dấu đi nỗi buồn đang dâng lên trong mắt rồi vỗ vai tôi động viên: “ Phải tự mình cố gắng em nhé!”. Bên thầy, tôi vẫn thấy mình nhỏ bé như cô học trò ngày nào.

Trường tôi giờ đã là ngôi trường nổi tiếng trong khu vực với chất lượng dạy và học cũng như chất lượng cơ sở vật chất. Khi Hà Tây sát nhập vào Hà Nội thầy trò nhà trường lại càng được quan tâm và ưu đãi nhiều hơn. Ngôi trường bé xinh ngày nào giờ đã thay da đổi thịt với những dãy phòng học, khu kí túc xá rộng rãi, đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu học tập và sinh hoạt của học sinh. Trường đã được UBND thành phố Hà Nội nâng cấp, mở rộng thêm 2.3 ha với nhiều hạng mục công trình hiện đại. Thầy Hiệu trưởng mới rất cởi mở và là người dám nghĩ, dám làm nhưng với tôi, tận sâu trong kí ức vẫn có một ngôi trường với hai dãy nhà cấp bốn thấp thoáng dưới chân núi Ba Vì ngày nào cùng những năm tháng không thể nào quên.

Tác giả: Nguyễn Thị Bích - Trường phổ thông Dân tộc Nội trú Hà Nội

Tin cùng chuyên mục

Cơ quan chủ quản: ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Địa chỉ: Số 81 Thợ Nhuộm, phường Cửa Nam, thành phố Hà Nội 
Điện thoại: 
024.39421429 (giờ hành chính), 024.39421420 (ngoài giờ hành chính); Fax: 024.39423985
Email: vanphongso@hanoiedu.vn, sogiaoduc@hanoiedu.vn 
Chịu trách nhiệm chính: Ông Trần Thế Cương - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội

Tập đoàn công nghệ Quảng Ích