Tôi nhớ những đồng nghiệp nước ngoài đã bảo: Người Việt lãng mạn bậc nhất. Họ biết vượt lên những cái buồn cái tủi và sự vất vả để có những giấc mơ hoa tuyệt vời trong cuộc đời.
Cái tính yêu hoa, cái thú thưởng ngoạn vẻ đẹp thế cây cành lá đã trở thành truyền thống sinh hoạt văn hóa cực kỳ tinh tế, tao nhã. Hoa- bầu bạn, hoa tri âm. Người Việt yêu hoa bởi hoa hiện thân cho vẻ đẹp thanh tịnh, đơn thuần và nó cũng gợi cho người ta liên tưởng tới một “bồng lai tiên cảnh” nào đó…
Ngày Tết, dù có “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh” nhưng chưa sắm cành Đào, chậu Quất hay bồn hoa cây cảnh thì lòng người vẫn áy náy. Phong vị Tết đượm đà đằm thắm hơn khi những “sứ giả thiên nhiên” đến “ngự” tại nhà cùng đón giao thừa mừng xuân mới.
Phàm chỗ nào đã được chọn làm kinh đô thì những điểm kề cận phải có hoa viên- ngự uyển. Kinh Bắc từng có mặt sớm những kinh đô cổ- trung tâm giao lưu chính trị, kinh tế, văn hoá tầm cỡ của nước nhà: Cổ Loa, Luy Lâu, Long Biên.
Vương triều Lý hiển vinh hẳn còn vang bóng trong ký ức dân gian về một Hoa Lâm bát ngát rừng Mai tô điểm Thái Đường nhà Lý ở Mai Lâm và Dương Lôi nơi sinh Thánh mẫu Phạm Thị Ngà- mẹ vua Lý Thái Tổ.
Một vườn hồng Quả Cảm (Yên Phong) có bà chúa gốm cùng vua Trần Anh Tông dạo chơi bên dòng Ngũ Huyện Khê. Ngẫu nhiên tạo hoá xui khiến hay là ẩn ý mang tính chất về một vận mệnh lịch sử mà một đại tộc ở Kinh Bắc xuất phát từ Lý Công Uẩn được mang họ Lý- tên một loài cây nở nhiều hoa vào mùa Xuân- cây mận?!
Cây đại lý tỏa bóng, đơm hoa kết trái cho quốc gia Đại Việt ở thế kỷ XI- XIII ấy được khởi thành từ "hạt nhân" Lý Công Uẩn mà thiền sư Vạn Hạnh là bậc hiền tài đã dày công vun trồng.
Người Kinh Bắc không chỉ quan tâm tới những thắng cảnh của gốc Tổ mà còn chú ý xây dựng những hoa viên, ngự uyển cho Thăng Long. Từ mùa Thu năm Canh Tuất (1010) Thăng Long được vua Lý Thái Tổ chọn làm Đế đô muôn đời thì nghệ thuật trồng hoa và cây cảnh càng tuyệt hảo và phát triển gấp bội. Thời Lý, ruộng lúa, vườn hoa dần chiếm ưu thế lấn rừng và sình lầy. Riêng về hoa đã mọc lên ở các vùng quanh Kẻ Chợ và trung tâm Hoàng Thành, chấm những mảng màu kỳ diệu cho bản đồ Thăng Long. "Thập Tam trại" (nay là Ngọc Hà, Giảng Võ, Hào Nam, Ngọc Khánh, Hữu Tiệp, Liễu Giai, Cống Vị, Thủ Lệ, Đại Yên…) trồng hoa dâng tiến vua. Chính những người dân Kinh Bắc từ làng rắn Lệ Mật (Gia Lâm) đã theo chàng trai Hoàng Phúc Trung (có công diệt thuồng luồng trên sông Đuống cứu công chúa nhà Lý) sang khu vực ven Hồ Tây khai khẩn, tạo thành vành đai hoa thơm cỏ lạ. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi rõ: mùa Thu năm 1048 nhà Lý mở luôn 3 ngự uyển: Quỳnh Lâm, Thắng Cảnh, Xuân Quang. Năm 1065 mở thêm ngự uyển Thượng Lâm. Vùng Bạch Mai, Tương Mai, Mai Động… vốn là rừng mơ hấp dẫn các vương tôn, công nương du ngoạn.
Những nẻo đường hoa Kinh Bắc- Thăng Long đã tiếp dẫn mạch nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho thi nhân. Những áng thơ hay nhất, những câu chuyện đượm phong vị huyền thoại thường nảy sinh từ gốc hoa. Và hoa là "sứ giả" của những cuộc tình lãng mạn giữa người và tiên, giữa thôn nữ với các bậc Đế vương, Chúa thượng.
Từ Thức- chàng quan huyện tài tử gặp nàng tiên Giáng Hương bởi cành Mẫu Đơn trong hội chùa Phật Tích (mồng 4 Tết). Vì người đẹp mà chàng quan huyện cởi phăng áo tía để chuộc lỗi thay cho nàng Giáng Hương làm gãy cành hoa Mẫu Đơn ở chốn Thiền môn. Nhờ "sự cố" cành hoa Mẫu Đơn mà Từ Thức- Giáng Hương bén duyên bước vào thế giới phiêu diêu huyền diệu. Còn Vua Lý Thánh Tông thì mê đắm cô gái cắt cỏ tựa bên gốc Lan hát câu ca đầy khẩu khí: "Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Trăm ngàn cây cỏ lai hàng tay ta". Hình ảnh đầy ấn tượng trong buổi đầu gặp gỡ cô gái ở trang Thổ Lỗi- xứ Kinh Bắc tựa gốc Lan ấy đã cuốn hút tâm trí vị vua anh minh và ông đã rước cô gái Lê Thị Khiết thông minh về triều và sau này phong là Nguyên Phi Ỷ Lan, hai lần thay vua nhiếp chính. Từ cô gái hái chè ở dãy núi Nguyệt Hằng, Đặng Thị Huệ đã lọt vào mắt Chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) và được phong Tuyên Phi do nàng có nhan sắc “Khả lên nhất đóa hồng nhan kiếm” (vẻ đẹp như một đóa hoa quý và sắc như kiếm), nhất là tài nữ công gia chánh vô cùng khéo léo. Nàng đã dâng Tĩnh Đô vương một bình hoa Huệ nhiều màu sắc được pha chế từ phẩm màu quả là trường hợp "độc nhất vô nhị". Dường như là duyên phận, các tên tuổi hay danh hiệu người đẹp nổi tiếng của Kinh Bắc xưa đều gắn với một loài hoa quý phái.
Nếu Nguyên Phi Ỷ Lan yêu dấu hoa Lan, Tuyên phi Đặng Thị Huệ tôn vinh loài hoa Huệ thì Ngọc Hân Công chúa lại "tương tư" hoa Đào. Hoa và người đẹp Kinh Bắc đã trở thành những "sự kiện lịch sử" như thế. Không chỉ đối với người đời mà trong quan niệm của các Thiền sư, hoa cũng có "sắc thái" riêng. Hầu hết các Thiền sư- thi sĩ đã mượn hình ảnh hoa hoặc thiếu nữ để biểu đạt trạng thái "giác ngộ", "đốn ngộ" của tâm linh trước thế gian "vô thường".
Thiền sư Huyền Quang (tên thật là Lý Đạo Tái- quê Vạn Tải- Gia Lương)- Một trong Tam Tổ siêu việt của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần cũng thiên về khuynh hướng đó:
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử Kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
Tạm dịch:
Giai nhân đôi tám ngồi thêu
Tử Kinh hoa đẹp oanh kêu rộn ràng
Thương Xuân ý thực vô vàn
Khi nàng dừng mũi kim vàng lặng im
“Hoa hủy tài bồi” cũng là triết lý nghệ thuật Á Đông. Trong quy luật tuần hoàn của vũ trụ thì sự sinh thành và hoại diệt luôn luân phiên đắp đổi:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục tiền nhân quá
Lão tòng đầu thượng lai
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Mãn Giác Thiền sư)
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua xuân trước nở nhành mai.
Qua hoa cảnh có thể hiểu thêm nhiều điều về bức tranh tâm thế nhân gian. Chơi hoa cảnh cũng là cách ký thác tâm tư tình cảm trong trang trí nội- ngoại thất của những tâm hồn biết trân trọng cái đẹp và những giá trị văn hoá làm cho cuộc đời tươi mát thêm.
Hoa Đào như một nét đặc thù ngày Tết của người Thăng Long- Hà Nội. Đào Nhật Tân đã đi vào lịch sử báo hiệu những điềm lành và gần với vận hội tốt đẹp của đất nước. Mùa xuân 1010, người dân bên bờ sông Hồng dâng Lý Công Uẩn cành đào khách chúc Thăng Long bình an thịnh vượng nhân sự kiện Vua “dời đô” từ Hoa Lư ra đây. Mùng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung áo bào còn sạm khói súng đã cho cận vệ phi ngựa về Phú Xuân mang cành Đào tặng Hoàng Hậu Ngọc Hân báo tin chiến thắng 20 vạn quân Thanh.
Cành Đào với người Thăng Long- Hà Nội chính là dấu son nối quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đào có nhiều loại. Đào bích hoa thắm đỏ, cánh xếp nhiều lớp dầy dặn. Nó hợp với những tâm hồn nồng nàn. Đào phai được mệnh danh là “Cung phấn nữ” bởi màu hoa giống má hồng của các phi tần ngày trước. Cánh hoa mềm như lụa nõn, phớt hồng và thưa thớt, điểm xuyết vài chiếc lá non bên nụ mầm thật đáng yêu. Phàm đã chơi Đào phải chơi Đào thế. Đào thế được tạo hình công phu mà chỉ những người dân của “dinh Đào” Nhật Tân mới thấu đạt kinh nghiệm. Họ ghép cành Đào nhà với gốc Đào rừng sù sì gân guốc để tạo ra mầm cây khỏe mạnh. Mầm cây phát triển, người ta bấm ngọn nhằm làm cho cây đậu nhiều nhánh, để uốn các hình dáng theo mong muốn. Những kiểu dáng và đường nét sinh động khiến ta nghĩ tới tác phẩm điêu khắc hay hội họa cổ điển, ấn tượng.
Không chỉ sành điệu thưởng hoa, người Hà Nội còn khéo chơi quả. Tết Nguyên Đán, ngoài sân, trong nhà bày mấy chậu Quất “Tam đại đồng đường”, “Tứ đại đồng đường”, “Ngũ đại đồng đường” mới đúng không khí Tết.
Ngoài tiêu chuẩn 3,4,5 tầng đầy đủ các loại lá xanh già, bánh tẻ và non mởn còn phải đủ các loại quả xanh, đỏ, vàng to nhỏ và hoa, nụ, mầm. Người Hà Nội chơi Quất với ý cầu mong hạnh phúc, sung túc.
Nếu xưa chơi cành theo thế trực, hoành hay huyền nhai thì nay người Hà Nội còn chơi thuần túy lá theo kiểu ít hay nhiều, toàn màu xanh hay có pha các sắc màu khác. Người Thăng Long- Hà Nội luôn tiên phong nâng nghệ thuật tạo hình cây cảnh lên những tầm mới, lạ, hay, đẹp với khao khát mang những mảnh trời xuân vào tâm hồn và gia đình.
Mùa xuân gieo thêm niềm hy vọng, những vùng hoa của thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh nhân rộng ra rực rỡ, khởi sắc hơn với những giống, những loại đặc hữu để "trang điểm" đời sống ngày càng tươi thắm diệu kỳ và có thể xuất khẩu ra thị trường quốc tế.