Mô hình "Toàn cảnh trại giam tù binh Phú Quốc" trưng bày tại "Bảo tàng các chiến sĩ cách mạng bị bắt tù đày"
Những ngày đáng nhớ
Ông Nguyễn Văn Chiển- Ủy viên thường trực Ban đại diện các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày Hà Nội xúc động kể lại: Những người chiến sĩ Hà Nội ngày ấy đã có mặt trên mọi nẻo đường ra chiến trường đánh Mỹ và cũng có mặt ở hầu hết các trại giam, nhà tù của Mỹ- Ngụy. Nhớ về những ngày đáng nhớ ấy là nhớ về những người con Hà Nội từng chịu đựng đòn tra tấn tàn bạo của địch; đấu tranh trực diện với kẻ thù để bảo vệ chân lý, lý tưởng, hi sinh bảo vệ đồng đội; học tập, trau dồi kiến thức, rèn luyện phẩm chất người lính Cụ Hồ…
Tháng 3/1968, hơn 60 chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày được đưa từ Trại giam Biên Hòa ra trại giam tù binh cộng sản Việt Nam- Phú Quốc. Đồng chí Đỗ Đăng Hiếu, một trong số các chiến sĩ ấy kể lại: Sau khi vào phân khu C3, tôi vừa ra khỏi xe, bọn giám thị và quân cảnh, mặt người dạ thú xông vào đánh tới tấp. Chúng thi nhau đánh vào ngực, chân và tay không ngớt. Tôi chỉ đếm được 60 búa nện vào mu bàn tay, mu bàn chân, cứ lõm rồi lại phồng lên… Cứ như thế chúng đánh cho đến khi tôi không biết gì nữa.
Tháng 11/1968, Đảng ủy phân khu C3 tổ chức học chính trị cho từng đội nhằm củng cố lòng tin vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân ta “Nhất định chúng ta sẽ trở về trong chiến thắng”. Lúc ấy đồng chí Đỗ Đăng Hiếu được cử làm phó bí thư chi bộ. Trong lúc đang phổ biến cho các nhóm, đồng chí Hiếu bị một tên an ninh chìm phát hiện ra. Đồng chí Hiếu nhớ lại: Chúng thay phiên nhau tra tấn tôi, vừa đánh vừa hỏi: Có phải mày là Bí thư đảng không? Đánh đập dã man mà không khai thác được thông tin gì, nhìn tôi người bê bết máu và mềm như tàu rau héo, chúng mới thôi.
Cũng chịu cảnh tù đày trong trại giam của địch, trong trí nhớ của đồng chí Chu Văn Bàng hiện lên rõ nét những hình ảnh ngày ấy. Ông kể: Ngày 4/6/1971, đơn vị tấn công cứ điểm Tân Cảnh (Kon Tum), không may tôi bị thương và bị địch bắt. Chúng chuyển tôi và một đồng chí nữa về trại giam Plâycu. Phòng giam khoảng 30 người, đã bí mật thành lập chi đoàn. Tổ chức đoàn trong tù có nhiệm vụ chủ yếu là động viên nhắc nhở, củng cố lòng tin cho anh em, đồng thời bàn cách chống lại các âm mưu thủ đoạn của địch, không làm các công việc như: rào kẽm gai, đắp lô cốt; không đi xem cổ vũ các phong trào văn nghệ, thể thao của chúng… Không khuất phục các yêu cầu của địch, chỉ đáp lời chúng bằng “những cái lắc chứ không gật”, các chiến sĩ của ta thường xuyên bị những trận mưa dùi cui vào cơ thể. Đồng chí Chu Văn Bàng còn bị chúng nhốt vào phòng biệt giam. “Khổ nhục trăm bề, sau 30 ngày trong phòng biệt giam, chúng thả tôi về phòng giam. Ba mươi ngày mới thấy lại mặt trời. Ba mươi ngày không rửa mặt, tắm gội, các vết thương trên da thịt nhiều chỗ đã đóng vảy. Khi về tới phòng giam anh em ùa ra, tôi ứa nước mắt vì sung sướng, vì đã giữ trọn mình với đảng, với đồng đội. Cuộc đấu tranh chống lại âm mưu của kẻ thù dù là rất nhỏ nhưng đã thắng lợi”- Ông Bàng tự hào nhớ lại.
Vẹn nguyên sự xúc động khi nhớ về những ngày tháng hào hùng, ông Bàng bộc bạch: Cho tới tận bây giờ, dù đã hơn 40 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ như in những ngày tháng trong tù ngục, nơi mà đồng đội đã từng chìa lưng chịu đòn thay nhau, sẵn sàng nhận lấy cái chết thay cho đồng đội mình được sống…
“Liệt sĩ” trở về
Những tưởng đã hi sinh trên chiến trường miền Nam, thật bất ngờ và xúc động đến nghẹn lòng khi chiến sĩ Trần Văn Dĩnh lại trở về đoàn tụ với gia đình, quê hương. Nhìn Kỷ niệm chương Trung kiên bất khuất lồng khung kính treo trang trọng trên tường, người chiến sĩ quả cảm năm xưa không khỏi tự hào về 9 năm 2 tháng chiến đấu trên chiến trường miền Nam ác liệt, người con Hoàng Trung (xã Hoàng Dương, huyện Thanh Oai) đã sống, đấu tranh và “liệt sĩ” đã chiến thắng trở về.
Ông kể lại: Bị thương và bị địch bắt tại mặt trận Tây Nguyên tháng 8/1966, tôi và một số đồng chí bị chuyển về trại giam Plâycu, sau đó là Nhà tù Cần Thơ. Khi bị giam giữ ở phòng số 10 Nhà tù Cần Thơ, tôi đã liên lạc với tổ chức Đảng và được giao nhiệm vụ phụ trách đoàn thanh niên. Bất ngờ ngày 15/10/1967, chúng lùa tù nhân lên một chuyên cơ vận tải đầy ra Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam- Phú Quốc. Lần này, tôi một lần nữa được giới thiệu với chi bộ Đảng trong tù, được sinh hoạt và phân công dạy bổ túc văn hóa cho 15 anh em (trình độ lớp 3, lớp 4). Không có giấy bút, anh em phải nhặt gạch từ bên ngoài vào viết trên nền xi măng. Lớp học cũng phải bí mật, chúng tôi chọn những lúc giám thị, quân cảnh không đi tuần tra để dạy học.
Chẳng may có một lần, bọn lính bắt gặp tôi đang dạy học. Tôi bị lôi lên phòng giám thị trại giam, chúng đánh đập dã man bằng dùi cui và truy hỏi: “Mày dạy chính trị cho cộng sản hả?”. Tôi trả lời: “Dạy chính trị gì đâu, anh em thích học văn hóa nên tôi chỉ dạy họ tập viết và làm phép tính”. Chúng lại đánh, bắt tôi nói thật. Tôi vẫn nhất mực chỉ nhận như vậy. Đánh hỏi mãi cũng chẳng được gì thêm, chúng phải thả tôi về.
Tiếp tục hứng chịu nhiều trận đòn tra tấn dã man của địch trong quá trình tham gia các cuộc đấu tranh trong nhà tù, nhưng đồng chí Trần Văn Dĩnh vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với nước… Cuối tháng 1/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Các chiến sĩ cách mạng của ta được trở về với quê hương của mình.
Ông Dĩnh nhớ lại: Về an dưỡng tại Quảng Yên, qua thư từ tôi vô cùng sửng sốt được tin: Vào giữa năm 1968, gia đình đã nhận giấy báo tử Trần Văn Dĩnh hi sinh trên chiến trường miền Nam. Gia đình, làng xã đã trọng thể làm lễ Truy điệu liệt sĩ. Mẹ già, vợ dại, con thơ đã khóc cạn nước mắt, đã bốn lần làm giỗ, thắp hương thờ cúng tôi… Ngày được đoàn tụ với gia đình, họ hàng, bà con tôi hạnh phúc biết bao. Chúng tôi đã chiến thắng trở về để hòa mình vào ngày toàn thắng của dân tộc, để chứng kiến những sự thay da đổi thịt của quê hương mình.
Hơn 40 năm đã qua, đất nước đã có biết bao đổi thay trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những người lính năm xưa trở về với cuộc sống đời thường đã phải vượt qua không ít khó khăn. Trong số 1.300 người chiến sỹ cách mạng bị tù đày trở về có gần 600 thương bệnh binh, sức khỏe sa sút, đời sống khó khăn nhưng ai ai cũng nỗ lực phát huy phẩm chất cách mạng, vươn lên trở thành người có ích cho xã hội, vì lý tưởng cao đẹp mà họ đã chiến đấu, hy sinh, xứng đáng là những “người chiến thắng trở về”. Ý chí kiên cường, sự hy sinh cao cả cho lý tưởng cách mạng của họ thật đáng khâm phục và đáng để thế hệ trẻ noi theo.